Theo quy định này, nước sạch là một chỉ tiêu (chỉ tiêu số 17.1) trong tiêu chí số 17 (môi trường và an toàn thực phẩm) của bộ tiêu chí xã NTM. Trong giai đoạn 2016-2020, xã đạt chuẩn chỉ tiêu 17.1 này tương đối phù hợp (tỉ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch đạt 98% trở lên, trong đó có hơn 60% nước sạch).
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2021-2025, bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM và NTM nâng cao giai đoạn 2021-2025 được áp dụng theo Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 8/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1738/QĐUBND, 1739/QĐ-UBND của UBND tỉnh. Theo quy định mới, đối với chỉ tiêu 17.1, tỉ lệ hộ được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn được quy định như sau: các xã khu vực III đạt chuẩn NTM phải có từ 15% số hộ gia đình được sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung mới đủ điều kiện đạt chuẩn NTM.
Tương tự, các xã không thuộc khu vực III phải có từ 20% số hộ trở lên được sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung mới đủ điều kiện thẩm định đạt chuẩn NTM. Đối với xã đạt chuẩn NTM nâng cao, yêu cầu chỉ tiêu này còn phải cao hơn.
Căn cứ theo các quy định của bộ tiêu chí mới ban hành trong giai đoạn 2021-2025, qua rà soát hiện nay nhiều xã không đạt chỉ tiêu về nước sạch, kể cả những xã đã được công nhận đạt chuẩn NTM. Trong số 63 xã đã được công nhận đạt chuẩn có 35/63 xã bị giảm tiêu chí này; trong đó, huyện Vĩnh Linh 13/13 xã, Gio Linh 7/10 xã, Triệu Phong 9/14 xã, Hải Lăng 3/12 xã, Cam Lộ 2/7 xã, thị xã Quảng Trị 1/1 xã.
Giải pháp cấp nước sạch cho vùng nông thôn
Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Hồ Xuân Hòe cho biết, giải pháp trước mắt để cung cấp nước hợp vệ sinh cho người dân vùng nông thôn là hướng dẫn người dân chủ động tích trữ nước để sử dụng trong mùa khô, thời gian hạn hán, ngập lụt. Sửa chữa, nâng cấp, hoàn thiện các công trình cấp nước sạch tập trung theo hướng hiện đại, đồng bộ, gắn với hệ thống giám sát quản lý vận hành công trình.
Đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch tập trung có quy mô lớn, đồng bộ, liên xã, liên huyện, kết nối với hệ thống cấp nước đô thị ở những nơi phù hợp để đảm bảo công trình hoạt động hiệu quả, bền vững; ưu tiên sử dụng nguồn nước từ hệ thống công trình thủy lợi, hồ chứa, đập dâng cho cấp nước sinh hoạt.
Tổ chức quản lý vận hành công trình cấp nước sạch theo mô hình phù hợp, hoạt động hiệu quả, bền vững, hướng đến chuyên nghiệp hóa công tác quản lý vận hành, bảo trì, bảo dưỡng công trình. Xây dựng và thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá nước sạch nông thôn, đảm bảo cấp bù giá tiêu thụ nước sạch theo quy định; thực hiện bù chéo chi phí trong quản lý vận hành công trình cấp nước; hỗ trợ kinh phí quản lý vận hành công trình sau đầu tư tại các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, bãi ngang, ven biển.
Tiến hành khảo sát, thống kê lại các công trình để xác định chính xác mức độ hư hỏng. Đặc biệt khảo sát kỹ các công trình không thể khắc phục được để đề nghị các địa phương tiến hành thủ tục thanh lý và có giải pháp cấp nước khác. Huy động, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện đầu tư các công trình, dự án cấp nước sạch nông thôn.
Về lâu dài, kiến nghị HĐND tỉnh ưu tiên bố trí nguồn lực đối ứng của địa phương để tỉnh đảm bảo đủ điều kiện tham gia Dự án nước sạch và vệ sinh nông thôn bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2024-2029 vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) với nguồn kinh phí 693,3 tỉ đồng.
Thống nhất chủ trương giao cho cơ quan chuyên môn xây dựng giá cấp nước cho khu vực nông thôn theo lộ trình để thu hút, mời gọi nhà đầu tư. Đồng thời có chính sách trợ giá cho cá nhân đầu tư công trình ở các vùng khó khăn và khan hiếm về nguồn nước. Hằng năm ưu tiên bố trí nguồn lực địa phương để đầu tư xây dựng, duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên các công trình cấp nước nông thôn tập trung.
Bố trí, đảm bảo nguồn vốn hằng năm để triển khai Dự án Hệ thống cấp nước tập trung vùng nông thôn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2022-2024 với tổng nguồn vốn 60 tỉ đồng, sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương.
Đề xuất, kiến nghị UBND tỉnh sớm thông qua Đề án cung cấp nước sạch trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030 do Sở Xây dựng thực hiện, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện đầu tư xây dựng các công trình cấp nước nông thôn tập trung trên địa bàn tỉnh. Cân đối, bố trí nguồn lực đối ứng của địa phương để tỉnh Quảng Trị đủ điều kiện tham gia Dự án nước sạch và vệ sinh nông thôn bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2024 - 2029 vay vốn WB với nguồn kinh phí 693,3 tỉ đồng.
Chỉ đạo các chủ đầu tư, các dự án trên địa bàn tỉnh tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư công trình cấp nước cho vùng miền núi để sớm giải quyết nhu cầu cấp nước cho người dân. Chỉ đạo chủ đầu tư sớm triển khai Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu cho đồng bào dân tộc thiểu số (CRIEM) thực hiện trên địa bàn các xã Hướng Linh, Tân Hợp, xã Lìa, xã Xy (huyện Hướng Hóa) và thị trấn Krông Klang, xã Mò Ó, xã Hướng Hiệp (huyện Đakrông) với tổng nguồn vốn đầu tư khoảng 170,635 tỉ đồng từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và vốn đối ứng của địa phương.
Giao cho cơ quan chuyên môn lập dự án đầu tư 5 công trình trên địa bàn huyện Hướng Hóa và Đakrông với chi phí đầu tư khoảng 370 tỉ đồng. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu, tìm kiếm nguồn vốn để bố trí xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các công trình nước sinh hoạt tập trung nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Đối với các địa phương, hằng năm cần ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn vốn của chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện trên địa bàn để triển khai công tác truyền thông về sử dụng nước sạch, tập huấn công tác quản lý, vận hành các công trình cấp nước tập trung cho các địa phương.
Xây mới, nâng cấp, sửa chữa và duy tu, bảo dưỡng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung nông thôn để duy trì tính bền vững của các công trình. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cơ chế, chính sách; thay đổi hành vi, thói quen sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn nước, công trình cấp nước cho người dân.
Trần Tuyền
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn