Tuy vậy, đứng trước bối cảnh mới, thách thức của biến đổi khí hậu, các loại dịch bệnh cũng như yêu cầu chất lượng nông sản ngày càng cao của thị trường, ngành nông nghiệp đã có định hướng chiến lược ra sao? Mô hình nào sẽ là trọng tâm phát triển? Chuyển đổi số của ngành nông nghiệp Quảng Trị sẽ diễn ra như nào? Tạp chí Cửa Việt có cuộc trò chuyện với đồng chí Hồ Xuân Hòe, TUV, Giám đốc Sở NN&PTNT về những vấn đề trên.
PV: Thưa đồng chí, do biến đổi khí hậu nên thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt và cực đoan hơn. Chúng ta đã chứng kiến thiên tai lịch sử năm 2020 với những dư âm khó có thể quên được. Ngành nông nghiệp Quảng Trị đã có những kế hoạch gì để vực dậy nền sản xuất và có thể “sống chung” với biến đổi khí hậu trong thời gian tới?
Những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự tác động ngày càng gia tăng và gây thiệt hại nghiêm trọng của các hiện tượng thời tiết cực đoan (siêu bão, lũ lụt, sạt lở đất,…) đến đời sống con người trên quy mô toàn cầu. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu gây ra, trong đó Quảng Trị là địa bàn thường xuyên gánh chịu những hiện tượng cực đoan như: bão, mưa lớn, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của người dân.
Biến đổi khí hậu đang và sẽ diễn ra ngày càng gay gắt nên việc chủ động các phương án ứng phó, thích ứng hay nói cách khác “sống chung” với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết mà mỗi người dân, chính quyền địa phương và cả hệ thống chính trị phải nhận thức và hành động kịp thời, quyết liệt. Ngành đang tích cực phối hợp với các ngành, địa phương hoàn thành công tác rà soát, đánh giá, hoàn chỉnh quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến 2030, tầm nhìn 2050. Chủ động xây dựng các phương án tổ chức sản xuất phù hợp với các kịch bản ứng phó với biến đổi khí hậu và khai thác tốt tiềm năng lợi thế của các vùng, miền.
Đảm bảo an toàn tính mạng cho người dân là việc chúng tôi cực kỳ quan tâm. Ngành đã phối hợp với các địa phương, tham mưu UBND tỉnh thực hiện công tác di dân ra khỏi các vùng nguy cơ sạt lở, mất an toàn cao; tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình ổn định cuộc sống và tổ chức sản xuất. Bên cạnh việc kịp thời rà soát, tham mưu ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp sinh thái, thân thiện với môi trường, ngành còn tập trung huy động mọi nguồn lực để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác phòng tránh thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Công tác dự tính dự báo được hiện đại hóa, đồng thời xây dựng bản đồ cảnh báo thiên tai, chia sẻ thông tin, dữ liệu về thiên tai nhanh chóng, kịp thời. Người dân sẽ được đào tạo, nâng cao năng lực, kỹ năng ứng phó, thích ứng với thiên tai theo phương châm “4 tại chỗ”, đảm bảo mỗi người dân, mỗi gia đình là mỗi pháo đài trong công tác ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của nông sản Quảng Trị
PV: Năm 2020, trong buổi làm việc với tỉnh Quảng Trị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng trong 5 năm tới, Quảng Trị vẫn phải lấy nông nghiệp làm trọng tâm; đặc biệt không nên chạy theo số lượng mà phải tăng giá trị, hiệu quả cao. Đồng chí nghĩ sao về vấn đề này?
Với gần 70% dân số ở vùng nông thôn, nông nghiệp vẫn là nền tảng và là một trong ba trụ cột chính của nền kinh tế tỉnh nhà. Khẳng định của đồng chí Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là hoàn toàn chính xác. Trong điều kiện tư liệu sản xuất (đất đai), các nguồn lực ngày càng bị thu hẹp thì việc yêu cầu phải đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị, hiệu quả trên một đơn vị diện tích là đòi hỏi tất yếu.
Nhìn vào quãng đường đã qua, có thể nói nông nghiệp Quảng Trị đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, từ chỗ thiếu đói đến nay đã đảm bảo an ninh lương thực, nhiều sản phẩm dư thừa phục vụ xuất khẩu, đời sống người dân và bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Tuy vậy, đứng trước bối cảnh mới, thách thức của biến đổi khí hậu, dịch bệnh cũng như yêu cầu chất lượng nông sản ngày càng cao của thị trường, nông nghiệp Quảng Trị phải tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Phải thay đổi tư duy sản lượng sang tư duy làm kinh tế, nâng cao chất lượng nông sản.
Muốn thực hiện được điều này, phải tiến hành rà soát lại các quy hoạch làm cơ sở lựa chọn các nhiệm vụ ưu tiên để xây dựng các đề án, dự án trọng điểm. Trong đó, đặc biệt chú trọng rà soát quy hoạch đất lúa, diện tích cây lâu năm, các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, quy hoạch 3 loại rừng (dành nhiều diện tích hơn cho rừng sản xuất), quy hoạch thủy lợi… có tính tới các yêu cầu mới về phát triển nông lâm thủy sản và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trên cơ sở rà soát, đánh giá các chính sách giai đoạn 2016 - 2020, ngành đang gấp rút và hoàn thiện các Dự thảo Đề án, Chỉ thị, Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn áp dụng trong giai đoạn tới, đề nghị Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành và triển khai từ đầu năm 2022. Chúng tôi cũng tiến hành rà soát quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất cây trồng, con nuôi chủ lực; vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao; quy hoạch làng xã thông minh, thân thiện với môi trường, quy hoạch phát triển nông nghiệp sinh thái gắn với du lịch cộng đồng, làm cơ sở đề nghị tích hợp vào quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050…
PV: Tôi rất tâm đắc với điều mà đồng chí vừa nhấn mạnh đến. Đó là việc thay đổi tư duy sản lượng sang tư duy làm kinh tế, nâng cao chất lượng nông sản. Hiện tại, người tiêu dùng đã dần dần có thay đổi tư duy trong việc lựa chọn đồ ăn, thức uống. Ngoài tiêu chí ngon, đủ chất dinh dưỡng… họ sẽ hướng đến tiêu chí an toàn. Vì thế, nông sản càng thuần tự nhiên càng có giá trị. Đồng chí có thể thông tin thêm về việc phát triển nông nghiệp hữu cơ của tỉnh hiện nay?
Với mục tiêu biến điều kiện bất lợi thành lợi thế cạnh tranh, nông nghiệp Quảng Trị đã và đang đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, sạch, thân thiện với môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ Việt Nam và quốc tế, đảm bảo điều kiện để tiêu thụ tại các siêu thị và xuất khẩu. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số mô hình sản xuất hữu cơ, canh tác tự nhiên, an toàn sinh học… Lúa có hơn 400 ha/năm (trong đó có gần 50 ha đã được cấp chứng nhận hữu cơ Việt Nam); hồ tiêu sản xuất hữu cơ có gần 200 ha (trong đó có gần 100 ha đã được cấp chứng nhận hữu cơ Việt Nam và Quốc tế); cây ăn quả, dược liệu, cà phê sản xuất theo hướng hữu cơ hơn 200 ha (trong đó có gần 6 ha cây ăn quả được cấp chứng nhận hữu cơ Việt Nam),… Qua đó đã tạo ra những nét đột phá trong phát triển sản xuất trên địa bàn.
Thời gian tới, chúng tôi tiếp tục huy động, lồng ghép, tận dụng tối đa các nguồn lực, đẩy mạnh công tác tổ chức, chỉ đạo sản xuất, tăng cường ứng dụng sản xuất nông sản hữu cơ, canh tác tự nhiên, ứng dụng công nghệ cao gắn với liên kết chế biến và tiêu thụ nông sản. Phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 1.000 ha lúa canh tác hữu cơ và canh tác tự nhiên. Bên cạnh việc hình thành các vùng sản xuất lúa hữu cơ tập trung tại Hải Lăng, Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong... sẽ mở rộng diện tích sản xuất một số đối tượng cây trồng khác ứng dụng quy trình sản xuất sạch, bền vững (hữu cơ, canh tác tự nhiên, hữu cơ sinh thái…). Toàn tỉnh phấn đấu đến năm 2025 đạt 500 ha hồ tiêu, 50 ha cà phê, 30 ha cây ăn quả có chứng nhận hữu cơ; có ít nhất 60 cơ sở/trang trại chăn nuôi sản xuất theo quy trình chăn nuôi hữu cơ hoặc ứng dụng công nghệ cao, 50 ha nuôi tôm sinh thái, 20 mô hình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ được hình thành mới trên địa bàn...
Để xây dựng nền nông nghiệp Quảng Trị phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế - xã hội và môi trường, ngành NN&PTNT tỉnh Quảng Trị xác định 3 mục tiêu chính cần đạt được đó là: Tái cơ cấu lại sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn tăng trưởng xanh và chuyển đổi số; Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, cải thiện cơ bản điều kiện sống của dân cư nông thôn, giảm chênh lệch giữa các vùng miền; Phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, thích ứng cao với biến đổi khí hậu; Bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi trường bền vững. Để thực hiện được các mục tiêu trên, công tác tuyên truyền rất quan trọng; trong đó đặc biệt coi trọng tuyên truyền thay đổi tư duy sản xuất từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, thân thiện với môi trường.
Chúng ta cần xác định người nông dân, kinh tế hợp tác, hợp tác xã đóng vai trò chủ thể trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh thay đổi tư duy cần chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề nông nghiệp, khuyến nông cho nông dân, kỹ năng quản trị cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã để bắt kịp và đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, tiếp cận và ứng dụng công nghệ số, tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành…
Kinh tế xanh và kinh tế số - điểm nhấn quan trọng phát triển nông nghiệp Quảng Trị
PV: Đồng chí có nhấn mạnh đến việc xây dựng nền nông nghiệp Quảng Trị phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế - xã hội và môi trường. Kinh tế xanh - một nền kinh tế vừa thỏa mãn nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa giải quyết được những thách thức về môi trường đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến từ khá sớm. Hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất quan điểm, xu hướng phát triển kinh tế xanh tập trung vào 3 trụ cột chính, đó là: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Theo đồng chí Quảng Trị có thể “theo đuổi” nền kinh tế xanh và vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế này?
Phát triển kinh tế xanh là xu hướng tất yếu đang được các quốc gia trên thế giới quan tâm, hướng tới nhằm bảo vệ môi trường sống trong sạch, bền vững. Không nằm ngoài xu hướng đó, Việt Nam đã, đang tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế xanh với những chiến lược cụ thể. Quảng Trị chúng ta đang là một điểm đến đầu tư mới, tiềm năng nên việc định hình mục tiêu phát triển kinh tế xanh theo tôi rất thuận lợi.
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII đã xác định 3 trụ cột để phát triển kinh tế là “Công nghiệp, Nông nghiệp và Dịch vụ”. Đây chính là định hướng chiến lược của Đảng bộ tỉnh trong việc tập trung phát triển theo định hướng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Trong đó trên từng lĩnh vực trụ cột đều xác định được những lĩnh vực trọng tâm cần ưu tiên đầu tư phát triển theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường như: Công nghiệp năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái…
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, phát triển kinh tế xanh trong ngành nông nghiệp sẽ góp phần sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đồng thời làm thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, mang lại hiệu quả kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao đời sống cho người dân. Bên cạnh đó, nông nghiệp xanh giúp tạo ra những sản phẩm sạch, an toàn và là yếu tố hết sức quan trọng cho sự ổn định kinh tế, xã hội trên địa bàn. Kinh tế xanh là nền tảng bền vững và ưu việt nhất để ngành nông nghiệp tỉnh nhà vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa gia tăng giá trị cho các sản phẩm nông sản, hướng tới mục đích xuất khẩu, đóng góp vào tiến trình phát triển kinh tế bền vững của địa phương.
PV: Thưa đồng chí, mô hình mà Quảng Trị có thể thực hiện để đáp ứng được cả 3 yếu tố: Kinh tế - xã hội và môi trường?
Có rất nhiều mô hình hiện nay đang được tỉnh khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia và nhân rộng như: Các mô hình canh tác hữu cơ, canh tác tự nhiên; các mô hình canh tác thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính; các mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP, an toàn sinh học, ứng dụng công nghệ cao…; Các mô hình nông nghiệp tuần hoàn; mô hình quản lý rừng bền vững, trồng rừng gỗ lớn, rừng có chứng chỉ FSC…
Với những tiềm năng, lợi thế hiện có, Quảng Trị đang theo đuổi mục tiêu trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, sạch, thân thiện với môi trường, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững, đáp ứng hài hòa giữa 3 yếu tố kinh tế - xã hội và môi trường.
PV: Đồng chí đã nhắc đến việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp. Chuyển đổi số có lẽ là vấn đề được nhắc đến rất nhiều trong thời gian qua, nhất là từ khi dịch Covid-19 bùng phát. Đối với ngành nông nghiệp sẽ diễn ra theo hướng nào? Người dân và doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi gì từ chuyển đổi số?
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra nhanh và mạnh mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội trên quy mô toàn cầu và từng quốc gia. Thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến 2025, định hướng đến 2030”, UBND tỉnh đã chủ động ban hành Kế hoạch số 5980/KH-UBND ngày 28/12/2020 về triển khai thực hiện Chương trình chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, trong đó nông nghiệp cũng được xác định là một trong 8 lĩnh vực ưu tiên tập trung thực hiện chuyển đổi số đến năm 2030.
Theo kết quả điều tra nhanh của Sở NN&PTNT Quảng Trị, toàn tỉnh hiện có 63% hợp tác xã, tổ hợp tác được trang bị máy tính, trong đó có 95,8% máy tính được kết nối mạng internet; 26,1% cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác sử dụng thành thạo máy tính; có 75,8% số hộ sản xuất nông nghiệp có điện thoại thông minh, trong đó 65,5% số hộ có điện thoại, máy tính kết nối internet, 84,8% số hộ sử dụng thành thạo điện thoại thông minh/máy tính. So với các tỉnh, thành trong cả nước, việc chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp, nông thôn ở Quảng Trị còn gặp nhiều khó khăn hạn chế: Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chuyển đổi số chưa đồng bộ; khối lượng cơ sở dữ liệu yêu cầu số hóa lớn trong khi nguồn lực đầu tư còn ít; thiếu chuyên gia hỗ trợ và trình độ kỹ năng số của người nông dân còn thấp; doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn ít; hầu như chưa có doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã nông nghiệp thực hiện chuyển đổi số…
Mặc dù việc chuyển đổi số đã có những kết quả bước đầu nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của nông nghiệp Quảng Trị. Chính vì thế, hiện nay Sở NN&PTNT đang chủ trì xây dựng Đề án “Chuyển đổi số trong nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” trình UBND tỉnh phê duyệt, triển khai. Chúng tôi xác định rõ nông dân là trung tâm của chuyển đổi số trong nông nghiệp. Chuyển đổi số sẽ thay đổi phương thức canh tác, quản lý, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh của người nông dân thông qua các thiết bị thông minh đơn giản như: Smartphone, máy tính có kết nối internet…
Toàn bộ quy trình từ trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế, chế biến sản phẩm sẽ được ghi lại và số hóa, truy xuất nguồn gốc, giúp nông sản có thể tích hợp đa giá trị thông qua đó giúp nâng cao giá trị, thu nhập từ chuyển đổi số. Quá trình chuyển đổi số sẽ thúc đẩy các hợp tác xã trở thành những doanh nghiệp công nghệ số và mỗi người nông dân sẽ trở thành thương nhân. Những sản phẩm nông sản sẽ được chào bán thông qua các sàn thương mại điện tử, các cửa hàng ảo trên môi trường mạng như: voso.vn, Portmart, Tiki, Shopee, Lazada…
Đối với các doanh nghiệp, đây là cơ hội thay đổi phương thức kinh doanh, tìm kiếm, lựa chọn cho mình mô hình hoạt động kinh doanh linh hoạt hơn, vừa tiết giảm chi phí, vừa tối ưu nguồn lực thông qua xu hướng xuất nhập khẩu nông sản trực tuyến, phát huy những lợi thế của thương mại điện tử trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng. Chuyển đổi số sẽ tạo cơ hội cho các bên liên quan tới lĩnh vực xuất nhập khẩu nông sản nắm bắt những cơ hội có được từ xu thế toàn cầu hoá, góp phần ổn định, phát triển trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch Covid-19.
PV: Xin cảm ơn buổi trò chuyện của đồng chí và chúc ngành nông nghiệp gặt hái những mùa vàng trên đồng đất Quảng Trị!
Nguồn tin: Tạp chí Cửa Việt
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn