Hai chương trình trên được phê duyệt nhằm hướng đến giải quyết 02 vấn đề rất quan trọng đó là: Vấn đề môi trường, nước sạch và an toàn thực phẩm và vấn đề chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới.
Từ thực tiễn xây dựng nông thôn mới, công tác bảo vệ môi trường nông thôn đã được quan tâm và dần có chuyển biến tích cực. Công tác thu gom chất thải được đẩy mạnh, hầu hết các thôn, xã đã hình thành đội thu gom chất thải sinh hoạt (tỷ lệ thu gom rác tại khu vực nông thôn đạt khoảng 66%); tỷ lệ chất thải rắn được thu gom tăng đáng kể qua các năm; nhiều mô hình cải tạo cảnh quan ở thôn, bản, ấp đã được các địa phương áp dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế; đã có hàng vạn km đường hoa, hàng rào xanh đã được hình thành. Đặc biệt, ý thức của người dân về việc giữ gìn môi trường sống cho bản thân và cộng đồng đã có sự thay đổi tích cực. Bên cạnh đó, công tác an toàn thực phẩm cũng được quan tâm, nhiều chính sách, giải pháp căn cơ đã được triển khai hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, bảo vệ môi trường nông thôn, quản lý an toàn thực phẩm vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều địa phương vẫn còn lúng túng trong quá trình thực hiện; công tác quản lý an toàn thực phẩm đôi lúc còn chưa chặt chẽ, thiếu sự tham gia chủ động và tích cực của cộng đồng, doanh nghiệp và người dân.Chương trình tăng cường bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm và cấp nước sạch nông thôn trong xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025 đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tối thiểu 55% dân số nông thôn được tiếp cận bền vững với nước sạch đạt quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày; 40% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung.Đảm bảo cấp nước sạch sinh hoạt quy mô hộ gia đình cho các hộ dân tại những khu vực chưa có khả năng tiếp cận với nước cấp tập trung, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn...
Trong lĩnh vực chuyển đổi số, cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin và truyền thông ở nhiều địa phương đã phát triển nhanh chóng, cả về chiều rộng và chiều sâu. Việc xây dựng hệ thống dịch vụ công trực tuyến được nhiều địa phương đẩy mạnh, một số địa phương đã xây dựng được hệ thống liên thông từ cấp tỉnh, huyện xã. Sản xuất nông nghiệp đã từng bước áp dụng công nghệ thông tin trong truy xuất nguồn gốc, thương mại điện tử; các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và an ninh trật tự ở khu vực nông thôn cũng đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số ở một số công đoạn. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong xây dựng NTM không chỉ bao hàm trong tổng thể chung trong Chiến lược chuyển đổi số quốc gia, mà còn đặt ra yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý chương trình, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất, thương mại nông sản, lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân trong xây dựng nông thôn mới,…Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng NTM hướng tới NTM thông minh giai đoạn 2021 - 2030 đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025, phát triển chính quyền số trong xây dựng NTM. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM được tổ chức đồng bộ, thống nhất trên nền tảng công nghệ số, ít nhất 90% hồ sơ công việc cấp trung ương, cấp tỉnh; 80% hồ sơ công việc cấp huyện và 60% hồ sơ công việc cấp xã được xử lý trên môi trường mạng. Ít nhất 97% số xã đạt chuẩn chỉ tiêu 8.4 của tiêu chí số 8 về thông tin và truyền thông theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM; 50% số xã đạt chuẩn chỉ tiêu 8.4 của tiêu chí số 8 về thông tin và truyền thông, 50% số xã đạt chuẩn chỉ tiêu số 15.2 của tiêu chí số 15 về hành chính công theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao.Có ít nhất 60% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn chỉ tiêu 9.5 của tiêu chí số 9 về an ninh trật tự - hành chính công, theo Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM; 25% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn chỉ tiêu 6.5 của tiêu chí số 6 về kinh tế, 25% đạt chỉ tiêu 9.2 của tiêu chí số 9 về an ninh trật tự - hành chính công theo Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM nâng cao.Phấn đấu 100% cán bộ quản lý các cấp tham gia thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM được tập huấn, nâng cao năng lực về chuyển đổi số. Phát triển kinh tế số, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn: ít nhất 70% xã có các hợp tác xã, 70% cấp huyện có các mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực và 50% các mô hình liên kết gắn với vùng nguyên liệu có ứng dụng công nghệ số...
Phát biểu tổng kết Hội nghị, đồng chí Trần Thanh Nam- Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh rằng việc triển khai thực hiện các Chương trình này cần tập trung vào một số nội dung chính ví dụ như chuyển đổi số trongsản xuất phát triển kinh tế nông nghiệp, trong quá trình thẩm định và đánh giá xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới; chương trình cấp nước sạch nông thôn cần tập trung tại các vùng khó khăn, biên giới hải đảo và tập trung vào các mô hình quản lý cộng đồng; nước thải chủ yếu tập trung ở các trang trại; phát triển kinh tế tuần hoàn, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và chăn nuôi kết hợp…